ÁC TI SÔ
Tên khoa học: Cynara scolymus L.; Họ Cúc (Asteraceae).
Tên đồng nghĩa:Cynara cardunculus L. var. scolymus
Tên nước ngoài:Artichoke, globe artichoke (Anh); artichaut (Pháp).
Đặc điểm thực vật (Mô tả):
Cây thảo lớn, sống hai nàm hoặc lâu năm, cao 1 - 1,2 m, có thể đến 2 m. Thân ngắn, thẳng và cứng, có khía dọc, phủ lông trắng như bông. Lá to, dài, mọc so le, phiến lá xẻ thùy sâu và có răng không đều, mặt trên xanh lục, mặt dưới có lông trắng; cuống lá to và ngắn.
Cụm hoa to mọc ở ngọn thân thành đầu màu đỏ tím hoặc tím lơ nhạt; lá bắc ngoài của cụm hoa rộng, dày và nhọn, đế cụm hoa nạc, phủ đầy lông tơ, mang toàn hoa hình ống.
Quả nhẵn bóng, màu nâu sẫm, có mào lông trắng.
Phân bố, sinh thái:
Chi Cynara L. có khoảng 12 loài, phân bố chủ yếu ở vùng Địa Trung Hải. Ác ti sô có thể là một dạng được thuần hóa từ một loài mọc hoang dại ở những vùng đồi khô Địa Trung Hải, sau được trồng nhiều ở Italia, Pháp, Tây Ban Nha và Bắc Phi để lấy cụm hoa non (bao gồm đế hoa, các lá bắc và hoa) làm rau ăn. Cây được người Pháp mang vào Việt Nam từ thế kỷ 19, lúc đầu trồng ở Sa Pa sau lan ra một vài nơi khác. Hiện nay cây được trồng nhiều nhất ở Đà Lạt (Lâm Đồng) và Sa Pa (Lao Cai), tổng diện tích lên tới vài trăm hecta.
Ác ti sô là loại cây thảo sống nhiều năm. Cây ưa sáng và ưa ẩm. Qua thực tế nhiều năm trồng ở Việt Nam cho thấy, ác ti sô sinh trưởng phát triển tốt nhất ở một sô' vùng núi cao như Sa Pa, Đà Lạt nơi có khí hậu ẩm mát. Cây trồng ở đây có thể cao tới hơn 1,5 m, ra hoa và kết hạt tốt. Trong khi đó, cây trổng ở vùng ngoại thành Hà Nội và một vài nơi khác sinh trưởng kém hơn.
Cách trồng:
Ác ti sô ưa khí hậu lạnh mát quanh năm. Nhiệt độ thích hợp khoảng 15 – 18oC. Ở Việt Nam, thường trồng ở độ cao 1000 - 1500 m so với mặt biển, ở độ cao này, cây có thể sống nhiều năm, vừa cung cấp giống, vừa sản xuất dược liệu, ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, có thể trồng ác ti sô vào vụ đông xuân và chỉ để lấy dược liệu. Ác li sô là cây sinh trưởng mạnh, cho nên cần chọn đất dày màu, thoát nước và bón nhiều phân.
Ác ti sô có thể nhân giống bằng hạt, bằng mầm nhánh hoặc bầng nuôi cấy mô. Ở miền núi phía bắc, có thể gieo hạt vào tháng 1, 2 hoặc tháng 9, 10. Ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, nên gieo vào đầu tháng 10. Thời gian ở vườn uơm là 45 - 50 ngày. Còn có thể tách mầm nhánh hoặc sản xuất cây con từ đốt thân, đỉnh chồi hoặc đỉnh sinh trưởng để trồng. Từ đỉnh sinh trưởng có thể lạo được cây con sạch virus.
Sau khi làm đất nhỏ, lên luống cao 20 - 25 cm, mặt luống rộng 40 cm, bổ hốc cách nhau 70 - 80 cm thành một hàng giữa luống. Dùng 10 - 15 tấn phân chuồng mục để bón lót cho 1ha, thúc bằng nước phán chuồng hoặc phân đạm 2 - 3 lần tùy tình hình sinh trưởng của cây. Tưới thúc lần thứ nhất 15 ngày sau khi trồng, lần thứ hai cách lần trước khoảng 20 ngày. Nếu tưới thúc bằng đạm thì dùng 80 - 100 kg urê/ha pha thành dung dịch 2%, tưới vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Cần làm cỏ vun xới kết hợp khi tưới thúc, về sau, mỗi tháng làm cỏ vun xới một lần cho đến khi câv giao tán.
Ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, có thể ngừng chăm sóc vào đầu tháng 2. Thường thu hái một lần vào tháng 4 - 5 tùy tình hình thời tiết, cắt toàn bộ thân lá hoặc có thể dùng cả rễ làm thuốc. Dùng hơi nước sôi có áp lực cao để xử lý nhanh thân lá, sau dó phơi hoặc sấy khô. Năng suất lá khô 1,5-2 tấn/ha,
Ở miền núi, trồng ác ti sô một lần có thể thu hoạch trong 2 - 3 năm, cây vừa ra hoa quả, vừa đẻ nhánh xung quanh gốc. Cây mẹ lụi đi, cây nhánh lại tiếp tục phát triển. Sau khi trồng 3 tháng, có thể bắt đầu dùng dao sắc để tỉa lấy lá. Tùy khả nãng chăm sóc, mỗi nãm có thể thu hái 2 - 3 lần. Sau mỗi lần thu hái, cần bón thúc, làm cỏ và vun xới.
Bộ phận dùng:
Lá ác ti sô thu hái vào năm thứ nhất của thời kỳ sinh trưởng. Có tài liệu cho biết là nên thu hái lá còn non vào lúc câv chưa ra hoa.
Ở Đà Lạt, nhân dân thu hái lá vào thời kỳ trước tết âm lịch một tháng.
Dược điển Việt Nam III, quy định dùng lá đã phơi hoặc sấy khô.
Rễ và thân cũng được dùng làm thuốc.
Thành phần hóa học
Lá ác ti sô chứa:
1. Acid hữu cơ bao gồm:
- Acid phenol: Cynarin (acid 1 - 3 dicafeyl quinic) và các sản phẩm của sự ihủy phân (acid cafeic, acid clorogenic, acid neo clorogenic).
- Acid alcol: acid hydroxymethylacrilic, acid malic, acid lactic, acid fumaric...
- Acid khác: acid succinic
2. Hợp chất flavonoid (dẫn chất của luteolin) bao gồm cynarosid (luteolin-7-D-glucopyranosid), scolymosid (luteolin -7- rutinosid) và cynarotriosid (luteolin-7-rutinosid-3'- glucosid).
3. Thành phần khác:
- Cynaropicrin là chất có vị đắng thuộc nhóm guaianolid.
- Enzym: oxidase, peroxidase, oxigenase, catalase. Các enzym hoạt động mạnh ở pH 4 - 7,6 và đẻ phá hủy hoạt chất trong quá trình phơi, sấy, chế biến.
- Nhiều chất vô cơ.
Hoạt chất là cynarin, các flavonoid, các acid cafeic và clorogenic có tác dụng hợp đồng với cyrarin.
Dược điển Rumani VIII quy định dược liệu phải chứa trên 1% polyphenol toàn phần và 0,2% hợp chất flavonoid.
Theo R. Paris (1971), hoạt chất (polyphenol) tập Irung ở lá, có nhiều chất ở phiến lá (7 - 20 g/kg) (tính theo nguyên liệu tươi), rồi đến hoa, đế hoa, rễ, cuống lá.
Theo Đặng Hồng Vân và cộng sự (1981), lá ác ti sô Đà Lạt chứa nhiều chất nhất: 1,23% polyphenol, 0,4% hợp chất flavonoid, sau đó đến thân và rễ.
Gân lá chứa ít hoạt chất, đồng thời lại chiếm khối lượng lớn của lá, nên cần được loại bỏ trước khi chế biến.
Theo Nichiforesco và Coucou (1966), lá non chưa nhiều hoạt chất gấp 2 lần lá mọc thành hoa thị ở dưới gốc.
Trong khi chế biến, nếu phơi sấy ở 20 - 25°c, thời gian làm khô kéo dài, các dẫn xuất polyphenol giảm mất 40%.
Nếu sấy ở 60°C, các dẫn xuất polyphenol giảm mất 80%.
Nếu sấy ở 8OoC hoặc 120°C, lá chỉ còn vết cynarin.
Để bảo vệ hoạt chất, lá cần được loại bỏ gân, rửa sạch và ổn định bằng nhiệt ẩm (hấp ở nỗi hơi nước hoặc cồn trong thời gian ngắn (5 phút nếu dùng nồi hơi cồn), rồi phơi hoặc sấy khô.
Để ức chế enzym, có thể ngâm lá vào dung dịch acid citric 1% (pH3).
Hoa chứa taraxasterol và faradiol. Hai chất này thí nghiệm trên chuột nhắt có tác dụng ức chế viêm mạnh do chất 12-O-tetradecanoyl phorbol-13 acetat gây ra (CA 125; 185.120c, 1996).
Tác dụng dược lý:
1. Dung dịch ác ti sô tiêm tĩnh mạnh gâv tăng mạnh lượng mật bài tiết.
2. Ác ti sô cho uống và tiêm đều có tác dụng làm tăng lượng nước tiểu và lượng urê trong nước tiểu, làm giảm hằng số Ambard, giảm nồng độ cholesterol máu và urê máu. Tuv nhiên lúc mới uống, có khi urê máu tăng lên, do ác ti sô làm tàng sự tạo urê trong máu.
3. Ác ti sô không gây độc.
Công dụng:
Cụm hoa được dùng trong chế độ ăn kiêng của bệnh nhân đái tháo đường vì nó chỉ chứa lượng nhỏ tinh bội, phần carbon hydrat gồm phần lớn là inulin.
1. Lá ác ti sô vị đắng, có tác dụng lợi tiểu và được dùng trong điều trị bệnh phù và thấp khớp.
2. Ngoài việc dùng đế hoa và lá bắc để ăn, ác ti sô dược dùng làm thuốc thông tiểu tiện, thông mật chữa các bệnh suy gan, thận, viêm thận cấp và mạn, sưng khớp xương. Thuốc có tác dụng nhuận tràng và lọc máu nhẹ đối vối trẻ em. Dạng dùng là lá tươi hoàc khô, đem sắc (5 - 10%), hoặc nấu cao lỏng, với liều 2 – 10g lá khô một ngàv. Có khi chế thành cao mềm hav cao khô để bào chế thuốc viên, thuốc tiêm dưới da hay tĩnh mạch. Có thể chế thành dạng cao lỏng đặc biệt dùng dưới hình thức giọt.
3. Người ta còn dùng thân và rễ ác ti sô thái mỏng, phơi khô, công dụng như lá.
Xí nghiệp Liên hiệp Dược tỉnh Lâm Đồng dã bào chế viên bao Cynaraphytol. Mỗi viên chứa 0,2g hoạt chất toàn phần lá tươi ác ti sô tương đương với 20 mg cynarin. Liều dùng cho người lớn là 2 - 4 viên trước bữa ăn. Trẻ em: 1/4 - 1/2 liều người lớn, tùy theo tuổi. Ngày uống 2 lần.
Xí nghiệp Dược phẩm trung ương 26 ở thành phố Hồ Chí Minh đã sản xuất trà ác ti sô túi lọc từ thân, rổ và hoa của cày ác ti sô với tv lệ các thành phần như sau:
Thân ác ti sô 40%; Rễ 40%; Hoa 20%. Hương liệu thiên nhiên vừa đủ
Mỗi túi chứa 2g trà, số lượng túi trà uống mỗi lần trong ngày không hạn chế. Thuốc không độc.